Thứ Năm, 9 tháng 6, 2022

Tâm Linh-Tôn Giáo

NHỮNG HUYỀN KÝ TÔN GIÁO VỀ THỜI MẠT PHÁP

I. Phật giáo

Triết lý Phật giáo nói đến định luật Thành, Trụ, Hoại, Không và bốn giai đoạn nầy cứ luân hồi mãi. Như vậy, giai đoạn Hoại, Không là thời kỳ cuối của chu kỳ thành lập Vũ Trụ, vạn vật.
Muôn vật giữa đời, có thịnh tất có suy, dù cho đạo pháp của Phật cũng vậy. Nhưng động cơ chánh trong sự suy vong của nền đạo là do con người chớ không phải do giáo pháp. Như hiện thời có thể nói Tam-tạng Kinh-điển đầy đủ hơn xưa, nhưng sở dĩ gọi là mạt-pháp, vì con người kém đạo đức, căn lành, không giữ đúng theo lời dạy của Phật. Cho nên người xưa có câu: “Nhơn năng hoằng đạo, phi đạo hoằng nhơn”, chính  là ý nầy, “Người hay mở mang cho đạo, không phải đạo mở mang cho người”, câu nầy chỉ có ý nghĩa phiến diện!
Về đạo Phật, theo thuyết tam thời, thì hiện tại là thời mạt-pháp; theo thuyết ngũ thời, hiện tại chính nhằm thời đấu tranh. Từ đây về sau, cứ đúng theo thật tế mà nói, Phật-pháp có ở trong tình trạng tiệm suy, nếu có vùng dậy cũng chỉ trong giai đoạn tạm thời, hay hoặc chỉ có ảnh hưởng bên ngoài. Vậy, nhất là hàng Phật-tử, càng nên cố gắng thật học, thật tu, để duy trì pháp vận, lợi ích thế gian, và phải làm với hết sức của mình.
Theo Kinh Phật thì Đức Thích Ca có tiên tri: Sau nầy vào thời Mạt pháp sẽ có Đức Phật Di Lặc ra đời, là một vị Phật thứ năm trong 5 vị Phật. Phật Di Lặc là một vị Bồ Tát(*)  sẽ nối tiếp Đức Thích Ca lập ra Hội Long Hoa để hóa độ chúng sanh. Hết thạnh rồi suy, hết suy lại thạnh, Phật Thích-Ca đã nhập diệt, Ðức Di-Lặc sẽ kế tiếp giáng sinh, nên chung qui chánh-pháp vẫn là bất diệt. Từ khi Phật Tích Ca tịch diệt đến nay, theo Kinh Phật, chia ra làm ba thời ký: Chánh pháp, Tượng Pháp và Mạt Pháp.

1. Thời kỳ Chánh Pháp: Là thời ký Đức Phật còn tại thế cho đến khi giáo lý của Ngài còn được phổ biến chân truyền. Phần đông ngươì tu được chứng quả, thời gian nầy khoảng năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
2. Thời kỳ Tượng Pháp: Thời kỳ nầy khoảng một ngàn năm lúc chư vị đệ tử của Phật còn tại thế, nối nhau truyến Chánh giáo, nhưng vì không được chân truyền nên đồ chúng đắc quả ít hơn thời gian Chánh pháp.
3. Thời Mạt Pháp: Phật giáo suy vi vì thất chân truyền, thiên hạ thiên về vật chất mà không lo đến đường tinh thần nên rất ít người chứng quả.

Theo Kinh Đại Tập, từ khi Phật tịch diệt về sau chỉ có 2.500, chia ra 5 thời kỳ: Mỗi thời kỳ 500 năm và 500 năm sau cùng là thời kỳ nhân loại xa lìa chánh pháp, theo tà thuyết, tìm đủ mọi mánh khoé để tranh chấp, giết hại nhau. Thời kỳ nầy là thời kỳ Mạt Pháp, sẽ có Đức Phật Di Lặc ra đời giáo Đạo cho chúng sanh trở về Chánh pháp để lập đời Thượng Nguơn Thánh Đức, tạo một Chu Kỳ mới là cuộc sống sẽ vô cùng tốt đẹp.

Tiếng Phạn là Bodhisattva, nghĩa là cứu độ tất cả mọi người. Vị nầy còn một bậc nữa là thành Phật. Đức Di Lặc nay là vị Phật tá danh là “Long Hoa Giáo Chủ Đương Lai Hạ sanh Di Lặc Tôn Phật”. Ngài là vị Phật mà vì lòng Tư Bi thương nhân loại nên Ngài hạ mình giáng sanh để tận độ chúng sanh.

Những lời huyền ký nói về thời mạt pháp

Khi Ðức Thế-Tôn sắp vào cõi Niết-bàn, Ngài có huyền ký (báo trước) tình trạng trong đời mạt-pháp và lúc chánh-pháp sắp diệt. Xin dẫn ra đây ít đoạn để cho hàng Phật-tử xuất-gia, tại-gia tự kiểm điểm, gạn bỏ điều ác, tu tập pháp lành.
Trong kinh Đại-Bi, Đức Phật bảo: “Nầy A-Nan! Khi ta nhập Niết-bàn rồi, trong thời gian 500 năm sau cuối, nhóm người giữ giới, y theo chánh-pháp, lần lần sút giảm; các bè đảng phá giới, làm điều phi pháp, ngày tăng thêm nhiều. Do chúng-sanh phỉ báng chánh-pháp, gây nhiều ác hạnh, nên phước thọ bị tổn giảm, các tai nạn đáng kinh khiếp nổi lên. Bấy giờ có nhiều Tỷ-kheo đắm mê danh lợi, không tu thân, tâm, giới, huệ. Họ tham trước những y, bát, thức ăn, sàng tòa, phòng xá, thuốc men, rồi ganh ghét tranh giành phỉ báng lẫn nhau, thậm chí đem nhau đến quan ty, lời nói như đao kiếm.
Cho nên, A-Nan! Đối với những vị xuất-gia tu phạm hạnh, thân khẩu ý thực hành đạo từ bi, ông nên cung cấp những thức cúng dường cho đầy đủ. Vị nào đối với các phạm hạnh hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc tin, hoặc làm, hoặc nhiều, hoặc ít, ông nên làm thế nào cho họ không khởi lòng não loạn, nên vâng giữ điều nầy ! Tại sao thế ? Vì trong cõi ngũ trược vào thời mạt kiếp, có nhiều sự khổ nạn như: Đói, khát, giặc, cướp, nắng hạn, bão lụt, bệnh tật, các loài trùng phá hại mùa màng, tóm lại có nhiều nhân  duyên làm cho chúng-sanh bị xúc não.
A-Nan! Lúc bấy giờ có các hàng trưởng-giả, cư-sĩ, tuy bị nhiều sự khổ não bức thiết, song vẫn sanh lòng tịnh tín, cung kính tôn trọng ngôi Tam-bảo, bố thí, giữ giới, tụng kinh, tu các công đức, khuyên người y theo Phật-pháp làm lành. Do thiện căn đó, khi mạng chung họ được sanh về Thiên-đạo, hưởng các điều vui. Còn  các Tỳ-kheo ác kia, ban sơ dùng đức tin, tâm lành, bỏ tục xuất-gia; nhưng sau khi xuất-gia, họ lại tham trước danh lợi, không cố gắng tu hành, nên kết cuộc bị đọa vào ác đạo”...
Kinh Đại-Tập nói: “Trong đời mạt-pháp, có những vua, quan, cư-sĩ ỷ mình giàu sang quyền thế, sanh tâm kinh mạn, cho đến đánh  mắng người xuất-gia. Nên biết những kẻ gây nghiệp ấy, sẽ bị tội đồng như làm cho thân Phật ra huyết...”
Trong kinh Pháp-Diệt-Tận, Đức Phật bảo: “Về sau, khi pháp của ta sắp diệt, nơi cõi ngũ trược nầy tà đạo nổi lên rất thạnh. Lúc ấy có những quyến thuộc ma vào làm Sa-môn để phá rối đạo pháp của ta. Họ mặc y phục như thế gian, ưa thích áo cà-sa năm sắc, ăn thịt uống rượu, sát sanh, tham trước mùi vị, không có từ tâm tương trợ, lại ganh ghét lẫn nhau. Bấy giờ có các vị Bồ-Tát, Bích-Chi, La-Hán vì bản nguyện hộ trì Phật-pháp, hiện thân làm Sa-môn, tu hành tinh tấn, đạo hạnh trang nghiêm, được mọi người kính trọng. Các bậc ấy có đức thuần hậu, từ ái, nhẫn nhục, ôn hòa, giúp đỡ kẻ già yếu cô cùng, hằng đem kinh tượng khuyên người phụng thờ đọc tụng, giáo hóa chúng-sanh một cách bình đẳng, tu nhiều công đức, không nệ tổn mình lợi người. Khi có những vị Sa-môn đạo đức như thế, các Tỷ- kheo ma kia ganh ghét phỉ báng, vu cho những điều xấu, dùng đủ cách lấn áp, xua đuổi, hạ nhục, khiến cho không được ở yên. Từ đó các Tỷ-kheo ác càng lộng hành, không tu đạo hạnh, bỏ chùa chiền điêu tàn hư phế, chỉ lo tích tụ tài sản riêng, làm các nghề không hợp pháp để sinh sống, đốt phá rừng núi làm tổn hại chúng-sanh không có chút từ tâm. Lúc ấy có nhiều kẻ nô tỳ hạ tiện xuất-gia làm tăng ni, họ thiếu đạo đức, dâm dật tham nhiễm, nam nữ sống lẫn lộn, Phật-pháp suy vi chính là do bọn nầy. Lại có những kẻ trốn phép vua quan, lẫn vào cửa đạo, rồi sanh tâm biếng nhác không học không tu. Đến kỳ tụng giới trong mỗi nửa tháng, họ chỉ lơ là gắng gượng, không chịu chuyên chú lắng nghe. Nếu có giảng thuyết giới luật, họ lược bỏ trước sau, không chịu nói ra hết.
Nếu có đọc tụng kinh văn, họ không rành câu, chữ, không tìm hỏi bậc cao minh, tự mãn cầu danh, cho mình là phải. Tuy thế, bề ngoài họ cũng ra vẻ đạo đức, thường hay nói phô trương, để hy vọng mọi người cúng dường. Các Tỷ-kheo ma nầy sau khi chết sẽ bị đọa vào Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sanh trải qua nhiều kiếp. Khi đền tội xong, họ thác sanh làm người ở nơi biên địa, chỗ không có ngôi Tam-bảo.
Lúc Phật-pháp sắp diệt người nữ phần nhiều tinh tấn, ưa tu những công đức. Trái lại, người nam phần nhiều kém lòng tin tưởng, thường hay giải đãi khinh mạn, không thích nghe pháp, không tu phước huệ, khi thấy hàng Sa-môn thì rẻ rúng chê bai, xem như đất bụi. Lúc ấy, do nghiệp ác của chúng-sanh, mưa nắng không điều hòa, ngũ sắc hư hao, tàn tạ, bịnh dịch lưu hành, người chết vô số. Thời bấy giờ, hàng quan liêu phần nhiều khắc nghiệt tham ô, lớp dân chúng lại nhọc nhằn nghèo khổ, ai nấy đều mong cho có giặc loạn. Trong thế gian lúc ấy khó tìm được người lương thiện, còn kẻ ác thì nhiều như cát ở bãi biển, đạo đức suy đồi, chư thiên buồn thương rơi lệ.
Nầy A-Nan! Lúc đạo pháp ta sắp diệt, ngày đêm rút ngắn, con người đoản mệnh, nhiều kẻ mới bốn mươi tuổi, tóc trên đầu đã điểm bạc. Về phần người nam, bởi nhiều dâm dật nên hay yểu chết, trái lại người nữ sống lâu hơn. Lúc ấy có nhiều tai nạn nổi lên, như giặc cướp, bịnh tật, bão lụt, nhân dân hoặc không tin hiểu đó là nghiệp báo, hoặc vì sống quen trong cảnh ấy, xem như là việc thường. Bấy giờ nếu có bậc Bồ-Tát, Bích-Chi, La-Hán dùng bi tâm ra giáo hóa, do nghiệp ác của chúng-sanh và sức ngoại ma xua đuổi, cũng ít ai đến dự pháp hội. Còn bậc tu hành chân chánh, phần nhiều ẩn cư nơi núi rừng, chỗ hẻo lánh, xa vắng, giữ đời sống an vui đạm bạc, được chư thiên hộ trì. Khi nhơn thọ giảm còn 52 tuổi, áo cà-sa của hàng Sa-môn đổi thành sắc trắng, kinh Thủ-Lăng-Nghiêm và Bát-Chu-Tam-Muội tiêu diệt trước, các kinh khác lần lần diệt sau, cho đến không còn văn tự.
Nầy A-Nan! Như ngọn đèn dầu trước khi sắp tắt, ánh đèn bỗng bừng sáng lên rồi lu mờ và mất hẳn. Đạo-pháp của ta đến lúc tiêu diệt cũng có tướng trạng như thế. Từ đó về sau trải qua ức triệu năm, mới có Phật Di-Lặc ra đời giáo hóa chúng-sanh”.
Lúc Ðức Di-Lặc thành chánh giác, Ngài ngồi nơi một gốc đại thọ, cành cây như mình rồng, hoa nở tủa ra bốn bên như những đầu rồng, nên gọi cây nầy là Long-Hoa-bồ-đề. Sau khi thành đạo quả, Phật Di-Lặc cũng ngồi nơi đây mà thuyết pháp, nên lại có danh từ Long-Hoa-pháp-hội.
(trích Phật học tinh yếu của cố HT. Thích Thiền Tâm)

II. Thiên chúa giáo

Theo Thiên Chúa giáo, Đức Chúa Jesus đã cho biết trước những điều thống khổ xảy đến cho loài người. Làm sao biết được ngày Phán Xét đến? Chúa có đáp là nên để ý đến những điềm báo lần lượt hiện ra như:
1. Điềm Trời: Trật tự thiên nhiên bị rối loạn, mùa tiết không còn điều hòa nữa và sẽ có những ngày Thiên ôn Địa ám.
2. Điềm đất: Thường xảy ra những trận địa chấn kinh khủng. Động đất cùng sóng thần, bão lụt sẽ hủy hoại sinh mạng, phá hại mùa màng, gia súc không biết cơ man nào kể xiết.
3. Điềm người: Con người ngày càng hung ác. Đức Jesus cho biết “Nên biết rằng trong những ngày cuối cùng, sẽ là những lúc khó khăn. Vì rằng con người sẽ rất ích kỷ, nô lệ cho bạc tiền, hay khóac lác, tự cao, phạm thượng, chống báng cha mẹ, bất nghĩa, vô thần… các người hãy lánh xa những hạng người đó. Nay thì những ai muốn sống hiền lành theo Chúa lại bị ngược đãi. Nhưng những người hung dữ và giả đạo đức cứ tiến mãi theo điều ác, làm lạc hướng người khác, đồng thời tự đánh lạc hướng mình.” (Timothée)
Theo Kinh Tân Ước (New Testament) các Thánh Tông Đồ có ghi lại lời Chúa Giê-su, tiên tri Ngày Phán Xét Cuối Cùng. Trong ngày Phán xét nầy, có sự thưởng phạt: Những người có công (sống trọn tốt trọn lành) được gọi là tôi tớ của Chúa thì được thưởng, còn những người có tội lỗi (kẻ ác, những kẻ mưu đồ ám hại người đồng loại) thì sẽ bị huỷ diệt Trong ngày Phán xét sẽ xảy ra những cuộc xáo trộn trật tự thiên nhiên. Con ngươì trên trái đất rước lấy những sự bất hạnh, phải làm hết sức mình mới kiếm được miếng ăn và nạn khan hiếm thực phẩm bởi hạn hán, côn trùng phá hoại mùa màng, bởi khủng hoảng nhiên liệu (dầu hỏa), nhân loại sẽ tàn tạ bởi bệnh tật: Bịnh dịch lan tràn, bệnh ung thư và những bệnh gây ra bời dùng sản phẩm hóa học phản thiên nhiên và các bịnh mới khác.

Ngày 13.7.1917 – tại Fatima, một làng nghèo vùng đồi núi của nước Bồ đào nha (Portugal), Đức Mẹ đã hiện ra nhiều lần. Dưới đây là thông điệp Fatima thứ III của Đức mẹ gửi cho bé Lucia (sau thành nữ tu Bernadette) và được đăng tải trong tờ báo Stop:
“Cô bé ơi, đừng sợ hãi. Đây là Người Nữ Đồng Trinh đang nói chuyện cùng em và yêu cầu em phổ biến thông điệp này cho toàn thế giới. Hãy lắng nghe, và chú tâm vào những gì được tiết lộ.
Nhân loại phải làm những thay đổi. Phải khiêm tốn ăn năn và xin được tha thứ cho các tội lỗi đã làm và những tội lỗi sẽ làm. Những ai đón nhận lời này muốn được bằng chứng, thì tôi gởi gấm qua em để nhân loại sẽ đón nhận. Mọi người dù có đạo Thiên Chúa hay ngoại đạo, hay người nông dân, thường dân, giáo sĩ, cảnh sát, linh mục, người thế tục đều chứng kiến hiện tượng phép lạ của mặt trời. Và hãy nhân danh tôi để tuyên bố rằng cuộc trừng phạt vĩ đại sẽ đổ lên mọi chủng tộc. Điều đó không xảy ra ngày hôm nay hay ngày mai, mà là của giai đoạn thứ hai của Thế kỷ thứ 20. Mọi trật tự sẽ biến mất trên toàn cầu. Sa Tăng cai trị khắp nơi, và là đầu mối, là đạo diễn của mọi sự kiện quan trọng xảy ra trên thế giới. Sa tăng sẽ thành công dành lấy ngai vàng của tôn giáo. Sa Tăng sẽ quyến rũ tận tâm hồn những người thông minh chế tạo vũ khí và chiến tranh có khả năng hủy diệt nhanh chóng trong vài phút, và hủy diệt một phần lớn nhân loại.
Sa tăng có đủ quyền lực trên các lãnh đạo đang nắm giữ quyền hành cai trị quốc gia và điều khiển họ chế tạo hàng loạt vũ khí. Và nếu nhân loại không có những hành động thích đáng thì tôi không có thể cản ngăn cánh tay của con tôi giơ cao. Và Thượng Đế sẽ trừng phạt loài người thảm khốc nhiều hơn các trận hồng thủy đã xảy ra.
Nếu nhân loại không thay đổi, thì đây là thời điểm mấu chốt quan trọng hơn hết mọi thời điểm, là rốt ráo của sự kết chung. Mọi việc sẽ trở nên tồi tệ hơn thời điểm này. Kẻ mạnh, kẻ đầy quyền lực sẽ chết giống như kẻ nhỏ yếu. Và rằng tôn giáo sẽ không tránh né được giờ phút đối diện sự thật.
Nhóm Hồng Y này tranh chấp với nhóm Hồng Y kia, đoàn Giám Mục này chống đối đoàn Giám Mục kia. Sa Tăng sẽ trà trộn vào trong nhóm người đó và sẽ có nhiều thay đổi tại La Mã. Nhà thờ (tôn giáo) sẽ thành đống gạch vụn và thế giới sẽ ngụp lặn trong hãi hùng... Khói và lửa sẽ từ trời sa xuống, nước biển sẽ sôi sục và bọt biển tràn dâng chuyển động và nhận chìm thế giới. Hàng triệu triệu người sẽ đi đến giai đoạn ước ao được chết. Khắp nơi đều có những hình ảnh đầy khủng hoảng, đói khát, và điêu tàn. Thời gian đã gần kề, và sự đổ nát sẽ càng lún sâu thêm trong tuyệt vọng. Kẻ tốt người xấu, kẻ cao người thấp, các hoàng tử của giáo hội cùng tín đồ, các lãnh đạo cùng nhân dân... Tất cả đều chết!
Nơi nơi đều có bóng dáng tử thần giống như là một hiện tượng tự nhiên xảy ra do nhiều lỗi lầm của những ai thiếu suy luận...”
Sưu tầm (Tài liệu: Phật học /Cố HH. TTT; Date with God/ Charles Sylva.)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét