NHỮNG HUYỀN KÝ TÔN GIÁO VỀ THỜI MẠT PHÁP
I. Phật giáo
Triết lý Phật giáo nói đến định luật Thành,
Trụ, Hoại, Không và bốn giai đoạn nầy cứ luân hồi mãi. Như vậy, giai đoạn Hoại,
Không là thời kỳ cuối của chu kỳ thành lập Vũ Trụ, vạn vật.
Muôn vật giữa đời, có thịnh tất có suy, dù cho
đạo pháp của Phật cũng vậy. Nhưng động cơ chánh trong sự suy vong của nền đạo
là do con người chớ không phải do giáo pháp. Như hiện thời có thể nói Tam-tạng
Kinh-điển đầy đủ hơn xưa, nhưng sở dĩ gọi là mạt-pháp, vì con người kém đạo đức,
căn lành, không giữ đúng theo lời dạy của Phật. Cho nên người xưa có câu: “Nhơn
năng hoằng đạo, phi đạo hoằng nhơn”, chính
là ý nầy, “Người hay mở mang cho đạo, không phải đạo mở mang cho người”,
câu nầy chỉ có ý nghĩa phiến diện!
Về đạo Phật, theo thuyết tam thời, thì hiện tại
là thời mạt-pháp; theo thuyết ngũ thời, hiện tại chính nhằm thời đấu tranh. Từ
đây về sau, cứ đúng theo thật tế mà nói, Phật-pháp có ở trong tình trạng tiệm
suy, nếu có vùng dậy cũng chỉ trong giai đoạn tạm thời, hay hoặc chỉ có ảnh
hưởng bên ngoài. Vậy, nhất là hàng Phật-tử, càng nên cố gắng thật học, thật tu,
để duy trì pháp vận, lợi ích thế gian, và phải làm với hết sức của mình.
Theo Kinh Phật thì Đức Thích Ca có tiên tri:
Sau nầy vào thời Mạt pháp sẽ có Đức Phật Di Lặc ra đời, là một vị Phật thứ năm
trong 5 vị Phật. Phật Di Lặc là một vị Bồ Tát(*) sẽ nối tiếp Đức Thích Ca lập ra Hội Long Hoa
để hóa độ chúng sanh. Hết thạnh rồi suy, hết suy lại thạnh, Phật Thích-Ca đã
nhập diệt, Ðức Di-Lặc sẽ kế tiếp giáng sinh, nên chung qui chánh-pháp vẫn là
bất diệt. Từ khi Phật Tích Ca tịch diệt đến nay, theo Kinh Phật, chia ra làm ba
thời ký: Chánh pháp, Tượng Pháp và Mạt Pháp.
1. Thời kỳ Chánh Pháp: Là thời ký Đức Phật còn
tại thế cho đến khi giáo lý của Ngài còn được phổ biến chân truyền. Phần đông
ngươì tu được chứng quả, thời gian nầy khoảng năm trăm năm sau khi Đức Phật
nhập Niết Bàn.
2. Thời kỳ Tượng Pháp: Thời kỳ nầy khoảng một
ngàn năm lúc chư vị đệ tử của Phật còn tại thế, nối nhau truyến Chánh giáo,
nhưng vì không được chân truyền nên đồ chúng đắc quả ít hơn thời gian Chánh
pháp.
3. Thời Mạt Pháp: Phật giáo suy vi vì thất chân
truyền, thiên hạ thiên về vật chất mà không lo đến đường tinh thần nên rất ít
người chứng quả.
Theo Kinh Đại Tập, từ khi Phật tịch diệt về sau
chỉ có 2.500, chia ra 5 thời kỳ: Mỗi thời kỳ 500 năm và 500 năm sau cùng là
thời kỳ nhân loại xa lìa chánh pháp, theo tà thuyết, tìm đủ mọi mánh khoé để
tranh chấp, giết hại nhau. Thời kỳ nầy là thời kỳ Mạt Pháp, sẽ có Đức Phật Di
Lặc ra đời giáo Đạo cho chúng sanh trở về Chánh pháp để lập đời Thượng Nguơn
Thánh Đức, tạo một Chu Kỳ mới là cuộc sống sẽ vô cùng tốt đẹp.
Tiếng Phạn là Bodhisattva, nghĩa là cứu độ tất
cả mọi người. Vị nầy còn một bậc nữa là thành Phật. Đức Di Lặc nay là vị Phật
tá danh là “Long Hoa Giáo Chủ Đương Lai Hạ sanh Di Lặc Tôn Phật”. Ngài là vị
Phật mà vì lòng Tư Bi thương nhân loại nên Ngài hạ mình giáng sanh để tận độ
chúng sanh.
Những lời huyền ký nói về thời mạt pháp
Khi Ðức Thế-Tôn sắp vào cõi Niết-bàn, Ngài có
huyền ký (báo trước) tình trạng trong đời mạt-pháp và lúc chánh-pháp sắp diệt.
Xin dẫn ra đây ít đoạn để cho hàng Phật-tử xuất-gia, tại-gia tự kiểm điểm, gạn
bỏ điều ác, tu tập pháp lành.
Trong kinh Đại-Bi, Đức Phật bảo: “Nầy A-Nan!
Khi ta nhập Niết-bàn rồi, trong thời gian 500 năm sau cuối, nhóm người giữ
giới, y theo chánh-pháp, lần lần sút giảm; các bè đảng phá giới, làm điều phi
pháp, ngày tăng thêm nhiều. Do chúng-sanh phỉ báng chánh-pháp, gây nhiều ác
hạnh, nên phước thọ bị tổn giảm, các tai nạn đáng kinh khiếp nổi lên. Bấy giờ
có nhiều Tỷ-kheo đắm mê danh lợi, không tu thân, tâm, giới, huệ. Họ tham trước
những y, bát, thức ăn, sàng tòa, phòng xá, thuốc men, rồi ganh ghét tranh giành
phỉ báng lẫn nhau, thậm chí đem nhau đến quan ty, lời nói như đao kiếm.
Cho nên, A-Nan! Đối với những vị xuất-gia tu
phạm hạnh, thân khẩu ý thực hành đạo từ bi, ông nên cung cấp những thức cúng
dường cho đầy đủ. Vị nào đối với các phạm hạnh hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc tin,
hoặc làm, hoặc nhiều, hoặc ít, ông nên làm thế nào cho họ không khởi lòng não
loạn, nên vâng giữ điều nầy ! Tại sao thế ? Vì trong cõi ngũ trược vào thời mạt
kiếp, có nhiều sự khổ nạn như: Đói, khát, giặc, cướp, nắng hạn, bão lụt, bệnh
tật, các loài trùng phá hại mùa màng, tóm lại có nhiều nhân duyên làm cho chúng-sanh bị xúc não.
A-Nan! Lúc bấy giờ có các hàng trưởng-giả,
cư-sĩ, tuy bị nhiều sự khổ não bức thiết, song vẫn sanh lòng tịnh tín, cung
kính tôn trọng ngôi Tam-bảo, bố thí, giữ giới, tụng kinh, tu các công đức,
khuyên người y theo Phật-pháp làm lành. Do thiện căn đó, khi mạng chung họ được
sanh về Thiên-đạo, hưởng các điều vui. Còn
các Tỳ-kheo ác kia, ban sơ dùng đức tin, tâm lành, bỏ tục xuất-gia;
nhưng sau khi xuất-gia, họ lại tham trước danh lợi, không cố gắng tu hành, nên
kết cuộc bị đọa vào ác đạo”...
Kinh Đại-Tập nói: “Trong đời mạt-pháp, có những
vua, quan, cư-sĩ ỷ mình giàu sang quyền thế, sanh tâm kinh mạn, cho đến
đánh mắng người xuất-gia. Nên biết những
kẻ gây nghiệp ấy, sẽ bị tội đồng như làm cho thân Phật ra huyết...”
Trong kinh Pháp-Diệt-Tận, Đức Phật bảo: “Về
sau, khi pháp của ta sắp diệt, nơi cõi ngũ trược nầy tà đạo nổi lên rất thạnh.
Lúc ấy có những quyến thuộc ma vào làm Sa-môn để phá rối đạo pháp của ta. Họ
mặc y phục như thế gian, ưa thích áo cà-sa năm sắc, ăn thịt uống rượu, sát
sanh, tham trước mùi vị, không có từ tâm tương trợ, lại ganh ghét lẫn nhau. Bấy
giờ có các vị Bồ-Tát, Bích-Chi, La-Hán vì bản nguyện hộ trì Phật-pháp, hiện
thân làm Sa-môn, tu hành tinh tấn, đạo hạnh trang nghiêm, được mọi người kính
trọng. Các bậc ấy có đức thuần hậu, từ ái, nhẫn nhục, ôn hòa, giúp đỡ kẻ già
yếu cô cùng, hằng đem kinh tượng khuyên người phụng thờ đọc tụng, giáo hóa
chúng-sanh một cách bình đẳng, tu nhiều công đức, không nệ tổn mình lợi người.
Khi có những vị Sa-môn đạo đức như thế, các Tỷ- kheo ma kia ganh ghét phỉ báng,
vu cho những điều xấu, dùng đủ cách lấn áp, xua đuổi, hạ nhục, khiến cho không
được ở yên. Từ đó các Tỷ-kheo ác càng lộng hành, không tu đạo hạnh, bỏ chùa
chiền điêu tàn hư phế, chỉ lo tích tụ tài sản riêng, làm các nghề không hợp
pháp để sinh sống, đốt phá rừng núi làm tổn hại chúng-sanh không có chút từ
tâm. Lúc ấy có nhiều kẻ nô tỳ hạ tiện xuất-gia làm tăng ni, họ thiếu đạo đức,
dâm dật tham nhiễm, nam nữ sống lẫn lộn, Phật-pháp suy vi chính là do bọn nầy.
Lại có những kẻ trốn phép vua quan, lẫn vào cửa đạo, rồi sanh tâm biếng nhác
không học không tu. Đến kỳ tụng giới trong mỗi nửa tháng, họ chỉ lơ là gắng
gượng, không chịu chuyên chú lắng nghe. Nếu có giảng thuyết giới luật, họ lược
bỏ trước sau, không chịu nói ra hết.
Nếu có đọc tụng kinh văn, họ không rành câu,
chữ, không tìm hỏi bậc cao minh, tự mãn cầu danh, cho mình là phải. Tuy thế, bề
ngoài họ cũng ra vẻ đạo đức, thường hay nói phô trương, để hy vọng mọi người
cúng dường. Các Tỷ-kheo ma nầy sau khi chết sẽ bị đọa vào Địa-ngục, Ngạ-quỷ,
Súc-sanh trải qua nhiều kiếp. Khi đền tội xong, họ thác sanh làm người ở nơi
biên địa, chỗ không có ngôi Tam-bảo.
Lúc Phật-pháp sắp diệt người nữ phần nhiều tinh
tấn, ưa tu những công đức. Trái lại, người nam phần nhiều kém lòng tin tưởng,
thường hay giải đãi khinh mạn, không thích nghe pháp, không tu phước huệ, khi
thấy hàng Sa-môn thì rẻ rúng chê bai, xem như đất bụi. Lúc ấy, do nghiệp ác của
chúng-sanh, mưa nắng không điều hòa, ngũ sắc hư hao, tàn tạ, bịnh dịch lưu
hành, người chết vô số. Thời bấy giờ, hàng quan liêu phần nhiều khắc nghiệt
tham ô, lớp dân chúng lại nhọc nhằn nghèo khổ, ai nấy đều mong cho có giặc
loạn. Trong thế gian lúc ấy khó tìm được người lương thiện, còn kẻ ác thì nhiều
như cát ở bãi biển, đạo đức suy đồi, chư thiên buồn thương rơi lệ.
Nầy A-Nan! Lúc đạo pháp ta sắp diệt, ngày đêm
rút ngắn, con người đoản mệnh, nhiều kẻ mới bốn mươi tuổi, tóc trên đầu đã điểm
bạc. Về phần người nam, bởi nhiều dâm dật nên hay yểu chết, trái lại người nữ
sống lâu hơn. Lúc ấy có nhiều tai nạn nổi lên, như giặc cướp, bịnh tật, bão
lụt, nhân dân hoặc không tin hiểu đó là nghiệp báo, hoặc vì sống quen trong
cảnh ấy, xem như là việc thường. Bấy giờ nếu có bậc Bồ-Tát, Bích-Chi, La-Hán
dùng bi tâm ra giáo hóa, do nghiệp ác của chúng-sanh và sức ngoại ma xua đuổi,
cũng ít ai đến dự pháp hội. Còn bậc tu hành chân chánh, phần nhiều ẩn cư nơi
núi rừng, chỗ hẻo lánh, xa vắng, giữ đời sống an vui đạm bạc, được chư thiên hộ
trì. Khi nhơn thọ giảm còn 52 tuổi, áo cà-sa của hàng Sa-môn đổi thành sắc
trắng, kinh Thủ-Lăng-Nghiêm và Bát-Chu-Tam-Muội tiêu diệt trước, các kinh khác
lần lần diệt sau, cho đến không còn văn tự.
Nầy A-Nan! Như ngọn đèn dầu trước khi sắp tắt,
ánh đèn bỗng bừng sáng lên rồi lu mờ và mất hẳn. Đạo-pháp của ta đến lúc tiêu
diệt cũng có tướng trạng như thế. Từ đó về sau trải qua ức triệu năm, mới có
Phật Di-Lặc ra đời giáo hóa chúng-sanh”.
Lúc Ðức Di-Lặc thành chánh giác, Ngài ngồi nơi
một gốc đại thọ, cành cây như mình rồng, hoa nở tủa ra bốn bên như những đầu
rồng, nên gọi cây nầy là Long-Hoa-bồ-đề. Sau khi thành đạo quả, Phật Di-Lặc
cũng ngồi nơi đây mà thuyết pháp, nên lại có danh từ Long-Hoa-pháp-hội.
(trích Phật học tinh yếu của cố HT. Thích Thiền Tâm)
II. Thiên chúa giáo
Theo Thiên Chúa giáo, Đức Chúa Jesus đã cho
biết trước những điều thống khổ xảy đến cho loài người. Làm sao biết được ngày
Phán Xét đến? Chúa có đáp là nên để ý đến những điềm báo lần lượt hiện ra như:
1. Điềm Trời: Trật tự thiên nhiên bị rối loạn,
mùa tiết không còn điều hòa nữa và sẽ có những ngày Thiên ôn Địa ám.
2. Điềm đất: Thường xảy ra những trận địa chấn
kinh khủng. Động đất cùng sóng thần, bão lụt sẽ hủy hoại sinh mạng, phá hại mùa
màng, gia súc không biết cơ man nào kể xiết.
3. Điềm người: Con người ngày càng hung ác. Đức
Jesus cho biết “Nên biết rằng trong những ngày cuối cùng, sẽ là những lúc khó
khăn. Vì rằng con người sẽ rất ích kỷ, nô lệ cho bạc tiền, hay khóac lác, tự
cao, phạm thượng, chống báng cha mẹ, bất nghĩa, vô thần… các người hãy lánh xa
những hạng người đó. Nay thì những ai muốn sống hiền lành theo Chúa lại bị
ngược đãi. Nhưng những người hung dữ và giả đạo đức cứ tiến mãi theo điều ác,
làm lạc hướng người khác, đồng thời tự đánh lạc hướng mình.” (Timothée)
Theo Kinh Tân Ước (New Testament) các Thánh
Tông Đồ có ghi lại lời Chúa Giê-su, tiên tri Ngày Phán Xét Cuối Cùng. Trong
ngày Phán xét nầy, có sự thưởng phạt: Những người có công (sống trọn tốt trọn
lành) được gọi là tôi tớ của Chúa thì được thưởng, còn những người có tội lỗi
(kẻ ác, những kẻ mưu đồ ám hại người đồng loại) thì sẽ bị huỷ diệt Trong ngày
Phán xét sẽ xảy ra những cuộc xáo trộn trật tự thiên nhiên. Con ngươì trên trái
đất rước lấy những sự bất hạnh, phải làm hết sức mình mới kiếm được miếng ăn và
nạn khan hiếm thực phẩm bởi hạn hán, côn trùng phá hoại mùa màng, bởi khủng
hoảng nhiên liệu (dầu hỏa), nhân loại sẽ tàn tạ bởi bệnh tật: Bịnh dịch lan
tràn, bệnh ung thư và những bệnh gây ra bời dùng sản phẩm hóa học phản thiên
nhiên và các bịnh mới khác.
Ngày 13.7.1917 – tại Fatima, một làng nghèo
vùng đồi núi của nước Bồ đào nha (Portugal), Đức Mẹ đã hiện ra nhiều lần. Dưới
đây là thông điệp Fatima thứ III của Đức mẹ gửi cho bé Lucia (sau thành nữ tu
Bernadette) và được đăng tải trong tờ báo Stop:
“Cô bé ơi, đừng sợ hãi. Đây là Người Nữ Đồng
Trinh đang nói chuyện cùng em và yêu cầu em phổ biến thông điệp này cho toàn
thế giới. Hãy lắng nghe, và chú tâm vào những gì được tiết lộ.
Nhân loại phải làm những thay đổi. Phải khiêm
tốn ăn năn và xin được tha thứ cho các tội lỗi đã làm và những tội lỗi sẽ làm.
Những ai đón nhận lời này muốn được bằng chứng, thì tôi gởi gấm qua em để nhân
loại sẽ đón nhận. Mọi người dù có đạo Thiên Chúa hay ngoại đạo, hay người nông
dân, thường dân, giáo sĩ, cảnh sát, linh mục, người thế tục đều chứng kiến hiện
tượng phép lạ của mặt trời. Và hãy nhân danh tôi để tuyên bố rằng cuộc trừng
phạt vĩ đại sẽ đổ lên mọi chủng tộc. Điều đó không xảy ra ngày hôm nay hay ngày
mai, mà là của giai đoạn thứ hai của Thế kỷ thứ 20. Mọi trật tự sẽ biến mất
trên toàn cầu. Sa Tăng cai trị khắp nơi, và là đầu mối, là đạo diễn của mọi sự
kiện quan trọng xảy ra trên thế giới. Sa tăng sẽ thành công dành lấy ngai vàng
của tôn giáo. Sa Tăng sẽ quyến rũ tận tâm hồn những người thông minh chế tạo vũ
khí và chiến tranh có khả năng hủy diệt nhanh chóng trong vài phút, và hủy diệt
một phần lớn nhân loại.
Sa tăng có đủ quyền lực trên các lãnh đạo đang
nắm giữ quyền hành cai trị quốc gia và điều khiển họ chế tạo hàng loạt vũ khí.
Và nếu nhân loại không có những hành động thích đáng thì tôi không có thể cản
ngăn cánh tay của con tôi giơ cao. Và Thượng Đế sẽ trừng phạt loài người thảm
khốc nhiều hơn các trận hồng thủy đã xảy ra.
Nếu nhân loại không thay đổi, thì đây là thời
điểm mấu chốt quan trọng hơn hết mọi thời điểm, là rốt ráo của sự kết chung. Mọi
việc sẽ trở nên tồi tệ hơn thời điểm này. Kẻ mạnh, kẻ đầy quyền lực sẽ chết
giống như kẻ nhỏ yếu. Và rằng tôn giáo sẽ không tránh né được giờ phút đối diện
sự thật.
Nhóm Hồng Y này tranh chấp với nhóm Hồng Y kia,
đoàn Giám Mục này chống đối đoàn Giám Mục kia. Sa Tăng sẽ trà trộn vào trong
nhóm người đó và sẽ có nhiều thay đổi tại La Mã. Nhà thờ (tôn giáo) sẽ thành
đống gạch vụn và thế giới sẽ ngụp lặn trong hãi hùng... Khói và lửa sẽ từ trời
sa xuống, nước biển sẽ sôi sục và bọt biển tràn dâng chuyển động và nhận chìm
thế giới. Hàng triệu triệu người sẽ đi đến giai đoạn ước ao được chết. Khắp nơi
đều có những hình ảnh đầy khủng hoảng, đói khát, và điêu tàn. Thời gian đã gần
kề, và sự đổ nát sẽ càng lún sâu thêm trong tuyệt vọng. Kẻ tốt người xấu, kẻ cao
người thấp, các hoàng tử của giáo hội cùng tín đồ, các lãnh đạo cùng nhân
dân... Tất cả đều chết!
Nơi nơi đều có bóng dáng tử thần giống như là
một hiện tượng tự nhiên xảy ra do nhiều lỗi lầm của những ai thiếu suy luận...”
Sưu tầm (Tài liệu: Phật học /Cố HH. TTT; Date with
God/ Charles Sylva.)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét